Cả khu xóm ai cũng biết đến ông Tư – cụ già gầy nhom, sống đơn độc trong căn nhà xập xệ cuối hẻm. Ngày nào cũng thấy ông đẩy chiếc xe cà tàng, rao vé số khản giọng giữa cái nắng Sài Gòn. Cứ xong buổi trưa là ông về, không trò chuyện với ai, không nhận bất cứ thứ gì ngoài việc bán vé.
Có điều lạ: trong nhà ông có 18 con mèo, đủ màu, đủ tuổi. Người trong xóm từng thấy lũ mèo ngồi thành hàng trước cửa, như lính gác, mỗi khi ông đi vắng. Hễ ai đến gần nhà – dù chỉ là đi ngang, ông đều la mắng, có lần còn rượt cầm chổi:
“Đi chỗ khác! Đừng lại gần nhà tao!”
Người ta gọi ông là “lão điên”, “khùng già”, thậm chí đồn thổi ông nuôi mèo để luyện bùa. Không ai dám bước chân vào mảnh sân chật hẹp ấy.
Cho đến một buổi sáng tháng Bảy mưa dầm, người ta không thấy ông đi bán như thường lệ. Trưa cũng không. Tối đèn vẫn tắt.
Chính quyền đến kiểm tra. Cửa nhà khóa trong, im lặng như nấm mồ. Khi phá khóa bước vào, mọi người ngã ngửa.
Căn nhà tồi tàn không hề là ổ bẩn như tưởng tượng. Mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, sạch sẽ. Lũ mèo xúm quanh một góc, mắt ươn ướt, vây quanh một chiếc ghế bố nơi ông Tư đã lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng.
Trên bàn thờ nhỏ, đặt ngay ngắn 18 tấm ảnh mèo, mỗi ảnh có tên riêng và ngày mất. Bên dưới là một chồng hồ sơ bệnh án, thư tay và giấy chứng nhận hiến tạng.
Mọi người bàng hoàng khi biết: ông Tư từng là bác sĩ thú y, vợ mất sớm, không con, ông chuyển về đây sống ẩn dật sau một biến cố lớn trong ngành. 18 con mèo là những con vật bị bỏ rơi, từng bị thương, bệnh tật, thậm chí suýt chết, được ông nhặt ngoài đường và nuôi như con ruột. Mỗi con mất đi, ông đều làm lễ và đặt ảnh.
Không những vậy, trong hộc tủ gỗ mục, chính quyền tìm thấy một cuốn sổ tiết kiệm 400 triệu đồng – đứng tên một tổ chức cứu trợ động vật và một lá thư di chúc ngắn:
“Đời tôi có thể vô nghĩa với người, nhưng không vô nghĩa với chúng nó. Chúng không nói được, không phản bội, và không bao giờ bỏ rơi tôi.”