Một đêm mùng 1 âm lịch, trời bỗng chuyển mưa lớn. Gió hú từng cơn xuyên qua hàng bia đá trong nghĩa trang làng, nghe như tiếng khóc của những linh hồn bị lãng quên. Mưa dội xuống mái tôn căn chòi tạm của ông Bảy – người giữ nghĩa địa – nghe như trống dồn trên nắp quan tài cũ.
Ông Bảy ngồi co ro bên bếp lửa lập lòe, tay run run cầm tách trà nguội lạnh. Mắt ông dán chặt ra ngoài cửa sổ – nơi có một ngọn đèn dầu nhỏ vẫn lập lòe cháy giữa mưa gió, ngay cạnh nấm mộ đã bị bỏ hoang từ lâu.
Tự dưng, chó tru lên một hồi dài. Bầy mèo trên mái chạy tán loạn.
Tiếng gió đột ngột lẫn tiếng gõ nhẹ vào cánh cửa gỗ mục.
Cốc… cốc… cốc.
Ông Bảy quay đầu, sống lưng lạnh toát.
Bên ngoài, một bóng người đang đứng im lìm – chiếc nón lá rũ nước mưa che khuất nửa khuôn mặt. Dưới ánh chớp, bàn tay người đó trắng bệch, gầy guộc như xương.
Ông Bảy khẽ lẩm bẩm, không rõ nói với ai:
– Lại đến rồi… Mỗi năm một lần, đêm mùng Một…“